Phương pháp chẩn đoán rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế là gì?
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (tiếng Anh: obsessive-compulsive disorder, viết tắt là OCD) là một rối loạn tâm lý có tính chất mạn tính, dấu hiệu phổ biến của bệnh đó là ý nghĩ ám ảnh, lo lắng không có lý do chính đáng và phải thực hiện các hành vi có tính chất ép buộc để giảm bớt căng thẳng, đây là một dạng trong nhóm bệnh liên quan trực tiếp đến stress.
Mặc dù các triệu chứng điển hình của OCD thường bắt đầu ở lứa tuổi thanh niên hoặc đầu trưởng thành, tuy nhiên cũng có tới một phần ba khởi phát khi còn nhỏ tuổi thậm chí có những đứa trẻ mắc bệnh trước tuổi đi học (người ta đã ghi nhận một số trường hợp OCD trước 2 tuổi). Ảnh hưởng của bệnh lên đứa trẻ ở giai đoạn đầu của cuộc đời gây những hậu quả nghiêm trọng cho chúng. Điều quan trọng là đứa trẻ cần được phát hiện và chữa trị sớm nhằm hạn chế tối đa những tác động xấu lên sự phát triển. Rối loạn ám ảnh cưỡng chế là một rối loạn của não bộ có nguyên nhân từ sự bất thường trong xử lý thông tin do vậy căn bệnh không phải là lỗi của người mắc hoặc biểu hiện của nhân cách không ổn định, yếu đuối.
Cách chẩn đoán rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Để chẩn đoán tình trạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế, các bác sĩ sẽ tiến hành bằng các phương pháp sau:
- Đánh giá tâm lý: Bác sĩ sẽ thảo luận về những suy nghĩ, cảm xúc, triệu chứng và kiểu hành vi của bệnh nhân để chẩn đoán bệnh nhân có những ám ảnh hay hành vi cưỡng chế làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân hay không. Bác sĩ có thể thảo luận thêm với người thân hoặc bạn bè của bệnh nhân.
- Chẩn đoán theo tiêu chuẩn: Căn cứ Hướng dẫn chẩn đoán và phân tích các rối loạn tâm thần (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders – DSM-5) của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ.
- Khám tổng quát: Các bác sĩ có thể tiến hành khám sức khỏe tổng quát để chẩn đoán liệu người bệnh có mắc thêm những căn bệnh khác hay không
Đánh giá tâm lý
Một cuộc phỏng vấn lâm sàng là một công cụ giúp các bác sĩ, nhà tâm lý học và các nhà nghiên cứu đưa ra một chẩn đoán chính xác về một loạt các bệnh tâm thần, chẳng hạn như chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD). Có hai loại phổ biến: Phỏng vấn lâm sàng có cấu trúc và phỏng vấn chẩn đoán lâm sàng.
Phỏng vấn lâm sàng có cấu trúc
Tiêu chuẩn vàng cho các cuộc phỏng vấn lâm sàng có cấu trúc là Phỏng vấn lâm sàng có cấu trúc cho DSM-5, còn được gọi là SCID.
Nó là một hướng dẫn phỏng vấn bán cấu trúc được quản lý bởi một nhà tâm lý học hoặc chuyên gia sức khỏe tâm thần khác, những người đã quen thuộc với các tiêu chuẩn chẩn đoán của tình trạng sức khỏe tâm thần.
Mục đích của cuộc phỏng vấn lâm sàng có cấu trúc
Phỏng vấn lâm sàng có cấu trúc có nhiều cách sử dụng, bao gồm đánh giá bệnh nhân để chẩn đoán dựa trên Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Sức khỏe Tâm thần , Ấn bản lần 5 (DSM-5); nghiên cứu để nghiên cứu một số nhóm người nào đó đều có cùng triệu chứng; cho các thử nghiệm lâm sàng; hoặc cho những học sinh đi vào lĩnh vực sức khỏe tâm thần để thực hành để trở thành những người phỏng vấn tốt hơn. SCID cũng có thể giúp xác định xem bạn có nhiều hơn một căn bệnh hay không. Chúng chứa các câu hỏi tiêu chuẩn hóa để đảm bảo rằng mỗi bệnh nhân được phỏng vấn theo cùng một cách.
Vì nhiều câu hỏi liên quan đến tiêu chuẩn chẩn đoán là chủ quan (ví dụ, với số lượng xét nghiệm máu có thể được sử dụng để chẩn đoán rối loạn thể chất), hướng dẫn chuẩn hóa như vậy giúp đảm bảo rằng các nghiên cứu đang xem xét mọi người với cùng các triệu chứng chung.
Nói cách khác, nó giúp làm cho một chẩn đoán chủ quan chủ yếu hơn một chút khách quan.
Các loại câu hỏi về phỏng vấn lâm sàng có cấu trúc
Các câu hỏi về phạm vi SCID từ việc hỏi về gia đình và bệnh sử của quý vị đối với bệnh tật và các khiếu nại hiện tại của quý vị, cũng như bản chất, mức độ nghiêm trọng và thời gian các triệu chứng quý vị đã trải qua.
Các câu hỏi rất chi tiết và cụ thể, nhưng không phải tất cả các câu hỏi sẽ cần câu trả lời vì SCID bao gồm một loạt các bệnh tật, hầu hết trong số đó bạn có thể không có.
SCID có thể mất từ 15 phút đến vài giờ để hoàn thành, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng và loại triệu chứng của bạn.
Các câu hỏi mà bạn có thể được hỏi trong một cuộc phỏng vấn lâm sàng có cấu trúc cụ thể về OCD bao gồm:
- Chi tiết cụ thể về nỗi ám ảnh và cưỡng chế của bạn là gì?
- Bạn đã bị ám ảnh và ép buộc bao lâu rồi?
- Làm thế nào có những ám ảnh và ép buộc ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn?
- Các triệu chứng của bạn có bắt đầu sau một căn bệnh mới hoặc dùng một loại thuốc mới không?
- Bạn có bị bệnh về thể chất trước khi bạn bắt đầu bị ám ảnh và / hoặc cưỡng ép không?
- Bạn có sử dụng ma túy trước khi bắt đầu bị ám ảnh và / hoặc cưỡng ép không?
- Bạn đã bao nhiêu tuổi khi các triệu chứng này bắt đầu?
Phỏng vấn chẩn đoán lâm sàng
Một cách hợp lệ khác để đánh giá và / hoặc chẩn đoán bệnh tâm thần là sử dụng một cuộc phỏng vấn chẩn đoán lâm sàng (CDI). Các CDI khác nhau ở chỗ chúng liên quan đến một cuộc trò chuyện hoặc tường thuật, giữa chuyên gia sức khỏe tâm thần và bệnh nhân thay vì một danh sách các câu hỏi tiêu chuẩn hóa như SCID. Cuộc phỏng vấn này mất khoảng hai tiếng rưỡi và chuyên gia sức khỏe tâm thần thực hiện cuộc phỏng vấn có thể sẽ ghi chép khi bạn nói chuyện.
Danh sách kiểm tra triệu chứng cũng có thể được sử dụng cùng với CDI để giúp người phỏng vấn chẩn đoán.
Các loại câu hỏi về Phỏng vấn chẩn đoán lâm sàng
Các câu hỏi về CDI rộng hơn nhiều và để cho bạn cung cấp thông tin chi tiết. Ví dụ về câu hỏi là:
- Thời thơ ấu của bạn là như thế nào?
- Mối quan hệ của bạn với mẹ / cha / anh chị em của bạn như thế nào?
- Trường học như thế nào cho bạn?
- Bạn đã có những loại tình bạn như một đứa trẻ?
- Mối quan hệ lãng mạn của bạn như thế nào?
- Công việc của bạn là gì và bạn đã thực hiện nó bao lâu rồi?
Một loại phỏng vấn lâm sàng có hợp lệ hơn một loại khác không?
Không. Một nghiên cứu gần đây cho thấy cả hai phương pháp phỏng vấn đều có giá trị và hữu ích như nhau.
Phương pháp mà một bác sĩ lâm sàng sử dụng sẽ phụ thuộc vào tiêu chuẩn của tổ chức và / hoặc sở thích cá nhân của họ.
Khám tổng quát
- Hầu hết những bệnh tâm thần đều có liên quan đến những chất hóa học ở não hoặc sự thay đổi hoạt động hay cấu trúc não bộ. Các chất dẫn truyền thần kinh được sử dụng như những nguyên tử tín hiệu giữa các sợi thần kinh, nó có một vai trò lớn trong các tình trạng bệnh như trầm cảm, rối loạn lo âu và OCD. Những thay đổi, thiếu hụt hay những bất thường về chất dẫn truyền đều có liên quan đến các bệnh về tâm thần. Các chất hóa học ở não từ lâu đã là một khía cạnh mà các nhà nghiên cứu quan tâm đến nhằm xác định nguyên nhân OCD. Trong đó, serotonin là một ứng viên khả quan nhất nằm sau nguyên nhân cũng như yếu tố góp phần hình thành OCD. Các thuốc điều trị chống trầm cảm làm tăng lượng serotonin trong não rất hữu hiệu đối với người. Điều này có nghĩa là sự thiếu hụt serotonin dẫn đến OCD, tuy nhiên serotonin chưa hẳn là nguyên nhân duy nhất dẫn đến bệnh ở người có mắc bệnh này.
- Những xét nghiệm hình ảnh về não bộ cho phép các nhà nghiên cứu xác định được có ba vùng hoặc cấu trúc ở não của người OCD hoạt động nhiều hơn. Điều này cho thấy sự bất thường ở não cũng là nguyên nhân góp phần gây ra bệnh. Ba vùng hoạt động quá mức khi quan sát trên hình ảnh là:
- Nhân đuôi: Vùng này của não liên quan đến việc sàng lọc suy nghĩ và kiểm soát thói quen. Khi OCD được kiểm soát tốt với điều trị, sự hoạt động quá mức ở vùng này được giảm xuống.
- Vùng vỏ não trước trán ổ mắt: Vùng này liên quan đến sự kiểm soát hành vi xã hội. Giảm hoạt động ở đây dẫn đến giảm sự mặc cảm nhưng tăng hoạt có thể gây ra những lo âu về xã hội và lo lắng về sự sạch sẽ hoặc có những hành động không phù hợp.
- Vùng hồi đai: Nằm ở vị trí trung tâm của não, vùng này được cho là điều hòa phản ứng của con người với những ý nghĩ rắc rối và sự ám ảnh. Sự tăng hoạt ở vùng này có thể gây ra những hành vi cưỡng chế.
- Nghiên cứu về OCD gần đây nhất cho rằng một yếu tố hóa học ở não khác có thể giải thích cho tình trạng bệnh. Các nhà nghiên cứu đã theo dõi trên chuột một protein là SPRED2. Nó có mặt ở tất cả các tế bào trong cơ thể và đặc biệt có nhiều ở não. Khi protein bị loại bỏ khỏi cơ thể chuột, nó làm chuột có những hành động bắt buộc chải lông và hành động đó diễn ra một cách quá mức. Các nhà nghiên cứu hy vọng rằng bằng cách dò được protein này và chất hóa học mà nó tác động đến, họ có thể xây dựng một điều trị tốt hơn cho bệnh OCD
- Ở một vài trường hợp, nhiễm trùng streptococcus có thể khởi phát các triệu chứng của RLAACC hoặc khởi phát bệnh sớm ở trẻ em đã có nhiễm trùng trước đó nhưng cơ chế cụ thể của việc này vẫn chưa được hiểu một cách đầy đủ. Khi điều này xảy ra, đứa trẻ có thể được chẩn đoán bị rối loạn tâm thần thần kinh tự miễn ở trẻ liên quan đến nhiễm trùng streptococcus (PANDAS). Bằng cách nào đó, nhiễm trùng có thể khởi phát một đáp ứng miễn dịch mà đáp ứng này lại gây ảnh hưởng đến não và làm khởi phát RLAACC.
- Chẩn đoán PANDAS được đưa ra khi đứa trẻ bắt đầu biểu hiện các dấu hiệu của RLAACC ngay sau khi bị nhiễm trùng mà trước đây khi chưa nhiễm trùng chưa có. Cũng có thể chẩn đoán khi đứa trẻ có triệu chứng của RLAACC nhưng những triệu chứng đó nặng hơn ngay sau khi bị nhiễm trùng. Nhiễm streptococcus có thể khởi phát PANDAS bao gồm viêm họng và sốt ban đỏ. PANDAS có thể xảy ra ở trẻ ở độ tuổi từ 3 đến khi dậy thì. Các dấu hiệu của PANDAS ở trẻ em có thể thay đổi tùy từng người nhưng các triệu chứng điển hình bao gồm:
- Bất kỳ triệu chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế nào.
- Dấu hiệu của rối loạn tic (máy giật) bao gồm máy giật giọng nói hoặc vận động.
- Buồn rầu và khó chịu
- Hội chứng lo lắng bị xa cách
- Tăng động và không tập trung
- Khó ngủ
- Đái dầm
- Đau khớp
- Sự thay đổi các kĩ năng vận động
Xin lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo. Độc giả vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế để được tư vấn cụ thể và chính xác nhất.