7 Căn Bệnh Tim Mạch Phổ Biến Nhất
Các bệnh tim mạch ẩn chứa nhiều rủi ro, thậm chí gây ảnh hưởng đến tính mạng. Hãy cùng tìm hiểu các bệnh về tim phổ biến sau đây để có biện pháp phòng ngừa kịp thời.
Bệnh mạch vành
Bệnh động mạch vành ban đầu có nhiều triệu chứng rất mơ hồ, thường là bắt đầu bằng những cảm giác nặng ngực hay cơn đau thắt ngực bên trái. Trong chuyên môn, đây còn gọi là cơn đau thắt ngực không ổn định. Cơn đau xuất hiện khi xúc động, gắng sức và thường xuất hiện vào buổi sáng. Có thể kèm theo cao huyết áp gây nhức đầu, chóng mặt, cảm giác khó thở.
Tần suất các cơn đau ngày càng tăng nhiều và cường độ nặng hơn và có thể đưa đến nhồi máu cơ tim cấp nếu không được điều trị đúng và kịp thời. Tỉ lệ tử vong trong nhồi máu cơ tim cấp khá cao, nhất là trong hoàn cảnh khả năng cấp cứu về tim mạch của nhiều bệnh viện ở Việt Nam còn nhiều hạn chế do thiếu nhân lực, trang thiết bị và việc vận chuyển bệnh nhân từ nơi ở đến bệnh viện cấp cứu còn nhiều hạn chế.
Bệnh tim mạch này tuy nghiêm trọng, nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa được. Nhưng phải phòng từ khi còn nhỏ, tức là ở tuổi thanh niên. Không nên ăn quá nhiều chất béo, chất ngọt, giữ cho cơ thể một thể trạng lý tưởng, rèn luyện thể dục thể thao, không hút thuốc lá, không ăn quá mặn. Nhất là giữ cho mình một tâm hồn tươi trẻ không quá lo lắng, tránh stress trong cuộc sống.
Những người có nguy cơ cao như gia đình có người bị nhồi máu cơ tim, béo phì, đái tháo đường, cao huyết áp, xơ vữa động mạch… rất cần đi khám bệnh định kỳ và điều trị tốt các bệnh nền để tránh nguy cơ nhồi máu cơ tim cấp.
Xem thêm: 6 dấu hiệu đau tim khó thở cần lưu ý.
Tai biến mạch máu não
Não là một trong những cơ quan nhận máu nhiều nhất của hệ tuần hoàn và các tế bào thần kinh là những tế bào nhạy cảm với tình trạng thiếu oxy nhất. Chỉ cần thiếu oxy 5 phút là các tế bào não sẽ chết và không có khả năng hồi phục vĩnh viễn.
Các thể bệnh tai biến mạch máu não hay gặp nhất còn gọi là đột quỵ bao gồm: co thắt mạch máu não, thiếu máu não thoáng qua, nhồi máu não, vỡ mạch máu não… Và nặng nhất là xuất huyết ồ ạt gây ngập não thất làm cho bệnh nhân tử vong trong vòng 1 – 2 giờ đồng hồ.
Các dấu hiệu dễ nhận thấy nhất của căn bệnh tim mạch này là bệnh nhân bị đau đầu dữ dội, chóng mặt, tay chân yếu hoặc liệt và đi vào hôn mê. Khả năng phục hồi của bệnh nhân phụ thuộc nhiều vào thể tai biến. Ở những thể nặng, bệnh nhân hôn mê sâu tỉ lệ tử vong lên đến trên 50%.
Để đề phòng tai biến, cần phát hiện sớm bệnh cao huyết áp và tình trạng xơ vữa động mạch, để điều trị tốt. Cần phải thận trọng với những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao như tuổi trên 50, béo phì, hút thuốc lá, đái tháo đường…
Bệnh động mạch ngoại biên
Động mạch ngoại vi là hệ thống gồm rất nhiều động mạch vừa và nhỏ, có nhiệm vụ đưa máu từ tim đi nuôi các bộ phận của cơ thể, đặc biệt là tứ chi. Động mạch bao gồm 3 lớp: lớp áo ngoài, lớp áo giữa và lớp nội mạc. Bệnh viêm tắc động mạch ngoại vi có hai thể: bệnh Buerger là tình trạng viêm của 3 lớp thành động mạch, xảy ra ở những bệnh nhân trẻ tuổi dưới 40, nghiện thuốc lá nặng. Bệnh kéo dài nhiều năm, nhưng cuối cùng đều phải đoạn chi, nhất là chi dưới, với tỉ lệ lên đến 95% sau 5 năm mắc bệnh. Bệnh nhân nếu bỏ được thuốc lá tình trạng bệnh sẽ tốt lên nhiều.
Bệnh động mạch ngoại vi thứ hai hay gặp nhất là tình trạng viêm và tắc động mạch do xơ vữa động mạch, xảy ra ở những người có tiền sử bị cao huyết áp và có rối loạn chuyển hóa mỡ. Tổn thương xảy ra ở lớp nội mạc với những mảng xơ vữa làm hẹp lòng động mạch, gây thiếu máu ngoại vi.
Các triệu chứng ban đầu của căn bệnh tim mạch này thường không rõ ràng. Xuất hiện rõ hơn bằng tình trạng đi lặc cách hồi. Tức là bệnh nhân đi một đoạn vài trăm mét thì đau nhói sau bắp chân, cơn đau khiến bệnh nhân phải ngồi nghỉ khoảng 5 – 10 phút sau hết đau và bệnh nhân có thể đi lại. Các cơn đau ngày càng tăng lên, đến một lúc nào đó bệnh nhân đau ngay cả khi nghỉ ngơi và xuất hiện những vết loét, hoại tử của chi…
Bệnh tim mạch này có thể phòng ngừa được bằng cách không hút thuốc lá, nhất là ở những gia đình đã có người bị bệnh Buerger. Cần điều trị tốt tình trạng xơ vữa động mạch và rối loạn chuyển hóa mỡ, chống béo phì và điều trị tốt đái tháo đường nếu có.
Bệnh van tim hậu thấp tim
Bệnh van tim hậu thấp rất hay xảy ra ở những vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa như Việt Nam. Trước kia, do quá trình phòng bệnh chưa tốt nên tỉ lệ người Việt Nam mắc bệnh thấp tim khá cao trên thế giới.
Bệnh tim mạch này có nguyên nhân do tình trạng nhiễm vi trùng Streptococus beta Hemolytique. Khi bị nhiễm loại vi trùng này, cơ thể sẽ sản sinh ra một loại kháng thể chống lại nó, mà bản thân các kháng nguyên là loại vi trùng lại có cấu trúc gần giống với cấu trúc của mô khớp và van tim. Nên khi kháng thể tấn tông tiêu diệt vi trùng nó cũng tấn công làm tổn thương mô khớp và van tim, làm cho khớp bị sưng lên, còn van tim thì biến dạng gây ra hẹp hở van tim. Từ đó đưa đến suy tim, ứ huyết tại gan và làm suy chức năng gan.
Căn bệnh về tim này thường xảy ra ở những phụ nữ trẻ, sau tình trạng viêm họng có sốt là tình trạng mệt, khó thở… nếu không điều trị đúng có thể đưa đến suy tim và tử vong. Việc điều trị bệnh van tim hậu thấp cũng khá phức tạp và tốn kém cho bệnh nhân vì van tim bị tổn thương trước kia hay sử dụng phẫu thuật nong van với dụng cụ, ngày nay các trung tâm phẫu thuật tim đều tiến hành mổ tim mở với sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể.
Chúng ta có thể phòng bệnh được bằng cách cải thiện môi trường sống ngay khi còn nhỏ. Tránh lạnh quá, nóng quá, nhà cửa và cơ quan làm việc phải sạch sẽ, nâng cao sức đề kháng của cơ thể, điều trị triệt để các bệnh mũi xoang. Nếu đã bị thấp tim phải sử dụng kháng sinh dự phòng nhiễm vi trùng Streptococus beta hemolytique cho đến năm 25 tuổi. Có thể sử dụng thuốc uống mỗi ngày, hay sử dụng loại Penicilline có tác dụng chậm – mỗi tháng tiêm một lần.
Bệnh tim bẩm sinh
Hiện nay, bệnh tim bẩm sinh là một trong các bệnh về tim hay gặp nhất ở Việt Nam. Các chuyên gia ước tính rằng: có khoảng 1 – 2% các em bé sinh ra mắc bệnh tim bẩm sinh từ nhẹ nhất như là còn ống động mạch, đến nặng nhất là hoán vị đại động mạch… Có khoảng trên 50 tổn thương tim bẩm sinh. Hiện tại luôn có hơn 100 ngàn trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh đang chờ mổ và cho dù có hàng chục trung tâm mổ tim mở ra cũng khó mà điều trị hết được.
Bệnh thường biểu hiện bằng tình trạng khó thở, hay bị viêm phổi, tím tái và đứa trẻ thường bị suy dinh dưỡng nặng. Ngày xưa khi mà phương tiện chẩn đoán còn thô sơ, chỉ dùng ống nghe thì việc xác định bệnh tim bẩm sinh gặp khó khăn. Ngày nay với sự ra đời và phát triển của siêu âm màu về tim mạch thì việc phát hiện bệnh tim bẩm sinh và thể loại tim bẩm sinh đơn giản hơn nhiều.
Việc phòng ngừa chủ yếu là từ cha mẹ. Cha và mẹ phải có sức khoẻ tốt, không quá lớn tuổi để sinh con, trong quá trình mang thai, nhất là 3 tháng đầu người mẹ không được tiếp xúc với hóa chất độc hại, X-quang, nhiễm siêu vi đặc biệt là bệnh rubella.
Phình động mạch chủ bóc tách
Phình động mạch chủ bóc tách, nhất là phình động mạch chủ ngực, là một biến chứng rất nặng của phình động mạch chủ. Bệnh nhân có thể bị đau ngực dữ dội cho đến khi ngất đi. Có nhiều trường hợp bệnh nhân tử vong ngay trong giai đoạn bệnh mới bắt đầu.
Nguyên nhân của căn bệnh tim mạch này đến từ xơ vữa động mạch. Vùng yếu của thành động mạch chủ như quai động mạch chủ ngực, phần dưới động mạch thận của động mạch chủ bụng sẽ phình ra, tạo cục máu đông gây tắc lòng động mạch, hoặc tạo sự bóc tách làm thành hai luồng thông và nặng hơn là vỡ túi phình gây tử vong.
Phình động mạch chủ bóc tách hoặc vỡ túi phình động mạch chủ có tỉ lệ tử vong khá cao, lên đến 95% nếu bệnh nhân ở nhà. Việc mổ thay quai động mạch chủ cũng là một phẫu thuật rất lớn cần phải có máy tim phổi nhân tạo và tỉ lệ thành công cũng chỉ khoảng 40 – 50% mà thôi.
Bệnh viêm cơ tim
Bệnh viêm cơ tim có thể gây ra tình trạng đột tử. Bệnh có thể xảy ra ở những người chưa hề bị bệnh tim trước đó. Khi cơ thể mệt mỏi, các loại siêu vi trùng xâm nhập và tấn công lên cơ tim nhất là siêu vi trùng loại Coxsackie. Ngoài ra có thể bị viêm cơ tim do hóa chất, do sự tăng quá nhiều của hoóc-môn tuyến giáp… Ở những bệnh nhân này, tình trạng viêm cơ tim có thể đưa đến suy tim và bệnh nhân bị tử vong nếu không phát hiện ra và không được điều trị.
Việc phòng ngừa chủ yếu là giữ cho cơ thể khỏe mạnh, khi cảm thấy hơi mệt cần phải đi kiểm tra tim mạch ngay, không làm việc quá sức và nhất là không để bị nhiễm các loại hóa chất. Nếu có bệnh bướu cổ cường giáp với nồng độ hoóc-môn tuyến giáp cao thì cần phải điều trị triệt để.