Viêm đường tiết niệu là gì? Nguyên nhân, triệu chứng, phương pháp phòng ngừa
Tổng quan chung
Viêm đường tiết niệu (Urinary tract infection) là tình trạng nhiễm trùng của đường hệ tiết niệu như thận, niệu quản, bàng quang và niệu đạo. Hầu hết các nhiễm trùng đường tiết niệu xảy ra ở cơ quan tiết niệu dưới gồm bàng quang và niệu đạo.
Viêm đường tiết niệu ở nữ giới thường xảy ra phổ biến hơn so với viêm đường tiết niệu nam giới do cấu trúc giải phẫu đường niệu đạo của nữ ngắn hơn nam giới, do đó, dễ bị nhiễm trùng hơn. Nhiễm trùng chỉ khu trú ở bàng quang gây ra cảm giác đau đớn và khó chịu, tuy nhiên, sẽ nghiêm trọng hơn nếu nhiễm trùng lan lên thận.
Triệu chứng
Triệu chứng viêm đường tiết niệu ở nam giới
Nam giới bị viêm đường tiết niệu thường thấy những triệu chứng sau:
- Rối loạn tiểu tiện: người bệnh thường có cảm giác buồn tiểu và muốn đi tiểu ngay, nhưng lượng nước tiểu trong mỗi lần lại rất ít, một ngày đi khoảng 20 lần kèm theo hiện tượng đau buốt trong mỗi lần đi.
- Nước tiểu có màu bất thường: khi bị viêm đường tiết niệu sẽ thấy màu sắc của nước tiểu có màu bất thường: màu vàng đục, có mủ hoặc máu, mùi nặng.
- Vùng tiết niệu ngứa ngáy, đau rát: Bệnh viêm đường tiết niệu thường khiến người bệnh cảm thấy ngứa ngáy, đau rát ở đường tiết niệu, đau khi xuất tinh, vì thế mà ngại gần bạn tình.
- Ngứa ngáy ở niệu đạo: dấu hiệu này thường xảy ra khi bệnh ở giai đoạn nặng. Vì vậy, khi thấy hiện tượng này, nam giới cần chủ động đi thăm khám ngay nếu không sẽ nguy hiểm đến sức khỏe.
- Niệu đạo sưng đỏ:. Nếu như có triệu chứng này thì chứng tỏ vi khuẩn đã bắt đầu xâm nhập vào đường tiết niệu khiến lỗ niệu đạo bị hẹp dần, việc đi tiểu sẽ gặp khó khăn.
- Lỗ sáo chảy mủ: khi hiện tượng này xảy ra nhiều nam giới sẽ lầm tưởng bản thân bị bệnh lậu. Mủ chảy ra sẽ có màu xanh hoặc vàng, xuất hiện ở miệng sáo, đôi khi có máu
Triệu chứng viêm đường tiết niệu ở nữ giới
Cũng gần giống như nam giới, triệu chứng viêm đường tiết niệu ở nữ giới bao gồm:
- Luôn có cảm giác buồn tiểu, đi tiểu nhiều lần và tiểu liên tục,
- Lượng nước tiểu trong mỗi lần tiểu ít, tiểu buốt, tiểu rắt,
- Cảm giác đau rát mỗi khi đi tiểu,
- Nước tiểu đục, mùi khai nồng, nhiều khi lẫn máu
- Vùng kín thường ngứa rát
- Đau lưng, đau vùng bụng dưới, đau khi quan hệ
Ngoài ra nữ giới bị viêm đường tiết niệu còn cảm thấy những triệu chứng như mệt mỏi, sốt cao, ớn lạnh, buồn nôn.
Nguyên nhân
Do vi khuẩn E.coli: Đa phần, bệnh viêm đường tiết niệu là do vi khuẩn E.coli gây ra. Vi khuẩn E.coli đi từ phân trong đại tràng đến bộ phận sinh dục ngoài, gây viêm niệu đạo, bàng quang rồi sau đó xâm nhập và lây lan lên các bộ phận trên.
Viêm đường tiết niệu ở nam giới
- Do nam giới vệ sinh kém, bị viêm quy đầu, … gây nên tình trạng nhiễm trùng đường tiết niệu.
- Nam giới bị bị chấn thương ở dương vật do quan hệ tình dục quá thô bạo, hay lạm dụng thủ dâm quá mức cũng có khả năng gây kích thích niệu đạo gây nên tình trạng viêm niệu đạo.
Viêm đường tiết niệu ở nữ giới
- Chị em có thói quen vệ sinh từ sau ra trước, nhịn tiểu quá lâu, hay vệ sinh cá nhân không sạch sẽ… tạo điều kiện để vi khuẩn xâm nhập phát triển và gây bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu.
- Phụ nữ quan hệ tình dục không lành mạnh, không vệ sinh trước và sau quan hệ
- Ngoài ra những phụ nữ trong thời kỳ sinh đẻ, hay trong thời kỳ kinh nguyệt sử dụng băng vệ sinh không hợp vệ sinh…cũng có thể là nguyên nhân gây nên viêm đường tiết niệu.
Đối tượng nguy cơ
- Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh ở nam giới: sỏi, phì đại tuyến tiền liệt, bàng quang thần kinh, hẹp niệu quản, hẹp niệu đạo…
- Một số yếu tố nguy cơ ở nữ giới: sỏi đường tiết niệu, bàng quang thần kinh, hẹp niệu quản, có thai.
Chẩn đoán
Xét nghiệm nước tiểu thông thường
Bác sĩ có thể yêu cầu một mẫu xét nghiệm nước tiểu thông thường, vừa có mục đích khảo sát sức khỏe tổng quát nói chung, vừa để tìm kiếm các tế bào bạch cầu, hồng cầu hoặc vi khuẩn trong chẩn đoán viêm đường tiết niệu.
Tuy nhiên, để tránh ô nhiễm mẫu bệnh phẩm có thể xảy ra và làm sai lệch kết quả, trước tiên người bệnh cần được hướng dẫn vệ sinh khu vực bộ phận sinh dục ngoài kỹ lưỡng và phải thu thập nước tiểu giữa dòng.
Đối với xét nghiệm nước tiểu nhằm mục tiêu chẩn đoán viêm đường tiết niệu, mẫu bệnh phẩm sẽ được đánh giá theo ba cách: kiểm tra bằng thị giác, kiểm tra với que nhúng và kiểm tra bằng kính hiển vi. Đối với quan sát trực tiếp, nhiễm trùng đường tiết niệu có thể làm cho nước tiểu trắng đục, lợn cợn thay vì trong suốt; có màu đỏ nếu nhiễm trùng gây chảy máu. Đồng thời, mẫu nước tiểu cũng sẽ có mùi bất thường.
Đối với kiểm tra bằng que nhúng, một que nhựa mỏng, có dải hóa chất sẽ được đặt trong nước tiểu để phát hiện những bất thường. Các dải hóa chất thay đổi màu sắc nếu một số chất có mặt hoặc nếu mức độ của chúng là trên mức bình thường. Lúc này, que nhúng sẽ cho biết bằng chứng của nhiễm trùng là khi có nitrit hoặc leukocyte esterase – một sản phẩm của bạch cầu – được phát hiện trong nước tiểu.
Cuối cùng là kiểm tra bằng kính hiển vi, khi quan sát thấy các tế bào bạch cầu có thể là dấu hiệu gián tiếp của nhiễm trùng. Sự hiện diện của vi khuẩn hoặc nấm men có thể chỉ ra nhiễm trùng đường tiết niệu là dấu hiệu trực tiếp.
Xét nghiệm cấy nước tiểu
Nuôi cấy nước tiểu là một xét nghiệm để tìm vi trùng trong nước tiểu có thể là tác nhân gây nhiễm trùng.
Đây được xem là “tiêu chuẩn vàng” để chẩn đoán nhiễm trùng đường tiết niệu. Kết quả nuôi cấy nước tiểu thường thu nhận được sau 2 đến 3 ngày. Tuy nhiên, một số vi trùng sẽ mất nhiều thời gian hơn để nuôi cấy thành công nhằm tránh kết luận sai lệch là âm tính giả. Vì vậy, kết quả có thể không có sẵn trong vài ngày nhưng thông qua xét nghiệm này, bác sĩ có thể phát hiện tác nhân gây bệnh hiện diện trong đường tiểu cũng như giải thích được cho sự hiện diện của các triệu chứng lâm sàng có liên quan.
Tương tự như xét nghiệm nước tiểu thông thường, một mẫu nước tiểu sẽ được thu thập đúng quy cách và thêm vào một chất thúc đẩy sự phát triển của vi trùng. Nếu không có vi trùng phát triển, kết quả cấy là âm tính, tức không có nhiễm trùng tiểu.
Ngược lại, nếu có vi trùng phát triển, kết quả cấy là dương tính, người bệnh nhiễm trùng tiểu. Nhiều phòng thí nghiệm xác định 105 đơn vị hình thành khuẩn lạc (CFU) / mL nước tiểu là ngưỡng. Tuy nhiên, ngưỡng này bỏ lỡ nhiều bệnh lý nhiễm trùng có liên quan. Do đó, có những đề nghị khác chẩn đoán nhiễm trùng đường tiết niệu là từ số lượng 103 CFU / mL, tùy thuộc vào loại vi khuẩn được phát hiện.
Trong trường hợp mẫu nước tiểu có số lượng từ 100 đến 100.000, kết quả này có thể được lý giải là do nhiễm trùng từ bên ngoài hoặc do nhiễm bẩn mẫu. Lúc này, người bệnh cần phải lặp lại quy trình nuôi cấy nước tiểu đúng theo tiêu chuẩn. Nếu số lượng vi trùng là 100 hoặc ít hơn, chẩn đoán nhiễm trùng đường tiết niệu là hiếm khi được nghĩ đến. Tuy nhiên, người bệnh vẫn có thể được nhận định là nhiễm trùng đường tiết niệu nếu đã dùng thuốc kháng sinh.
Hình ảnh học của hệ niệu
Nếu bị viêm đường tiết niệu thường xuyên hay viêm đường tiết niệu xảy ra trên các đối tượng có ít nguy cơ như nam giới, trẻ em… các nguyên nhân bất thường trong đường tiết niệu cần phải nghi ngờ.
Lúc này, người bệnh cần phải được siêu âm, chụp cắt lớp vi tính hoặc chụp cộng hưởng từ ổ bụng và tái dựng hình ảnh hệ niệu. Bác sĩ cũng có thể sử dụng thuốc nhuộm tương phản để làm nổi bật các cấu trúc trong đường tiết niệu.
Trong trường hợp có bất thường cấu trúc trên hệ niệu như xuất hiện các khối chèn ép tại chỗ hay xâm lấn, các dị tật bẩm sinh…, việc can thiệp ngoại khoa giải thoát tắc nghẽn cần được xem xét chỉ định, phòng ngừa viêm đường tiết niệu tái phát. Mặt khác, các phương tiện hình ảnh học của hệ niệu cũng giúp phát hiện ra biến chứng tổn thương cấu trúc do những lần viêm đường tiết niệu thường xuyên trước đó, có thể cần phải phẫu thuật.
Nội soi bàng quang
Toàn bộ niêm mạc đường tiểu dưới, bao gồm bàng quang và niệu đạo, sẽ được thám sát bằng nội soi bàng quang.
Chỉ định này cũng sẽ được thực hiện nếu bạn bị nhiễm trùng tiểu tái phát. Trong đó, bác sĩ sẽ thực hiện nội soi bàng quang bằng cách sử dụng một ống dài, mỏng, có gắn nguồn sáng và máy thu hình để quan sát bên trong niệu đạo và bàng quang. Bất kỳ những thương tổn trên bề mặt niêm mạc niệu đạo và bàng quang cũng có thể là điều kiện thuận lợi để vi trùng bám dính, tăng sinh và gây bệnh. Chính vì vậy, nếu không giải quyết được những nguyên nhân tiềm ẩn này, người bệnh sẽ được chẩn đoán viêm đường tiết niệu và điều trị nhiều đợt kháng sinh nhưng kém đáp ứng.
Phòng ngừa bệnh
- Đảm bảo uống đủ 2l – 2,5l nước mỗi ngày. Vì thói quen này sẽ giúp thận tăng bài tiết nước tiểu để tống vi trùng ra ngoài, hạn chế lây nhiễm ngược dòng.
- Giữ gìn vệ sinh cơ quan sinh dục đúng cách, đặc biệt là nữ giới khi có kinh nguyệt.
- Người từng bị hay đang bị sỏi thận – tiết niệu cần thường xuyên khám và tầm soát nhiễm trùng tiểu để có biện pháp can thiệp kịp thời.
- Khi bị viêm đường tiểu, người bệnh cần điều trị đúng phương pháp và triệt để ngay từ đầu để ngừa tình trạng tái phát.
Điều trị như thế nào
Kháng sinh là cách điều trị viêm đường tiết niệu thường được sử dụng nhất. Nếu người bệnh chỉ xuất hiện những triệu chứng khu trú ở đường tiết niệu dưới do viêm bàng quang, viêm niệu đạo, bác sĩ sẽ chỉ định kháng sinh đường uống trong 5 – 7 ngày. Nếu có triệu chứng sốt và ớn lạnh, nhiễm trùng huyết, ổ viêm tại đường niệu trên, người bệnh cần nhập viện để sử dụng kháng đường tĩnh mạch.
Trong trường hợp bệnh tái đi tái lại nhiều lần, người bệnh có dị dạng đường niệu hoặc đang đặt ống tiểu, bác sĩ sẽ nuôi cấy vi khuẩn để tìm đúng kháng sinh nhạy cảm với chủng vi khuẩn đó.
Bên cạnh đó, các loại thuốc có tính sát trùng trên hệ niệu cũng được ghi nhận về hiệu quả trong việc tiêu diệt vi khuẩn, có thể được chỉ định dùng với kháng sinh. Tuy nhiên, bằng chứng của các loại thuốc này vẫn chưa rõ ràng.
Nếu ổ nhiễm khuẩn không khống chế được bằng thuốc hoặc có biến chứng ở thận như thận ứ nước nhiễm khuẩn, thận ứ mủ, áp-xe thận, người bệnh cần áp dụng điều trị phẫu thuật dễ dẫn lưu ổ nhiễm khuẩn. Tương tự những dị tật hệ niệu, khi không phẫu thuật chỉnh sửa hoàn thiện, bệnh nhân có thể đối mặt với nguy cơ bệnh tái đi tái lại, lâu ngày dẫn tới biến chứng nguy hiểm.
Xin lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo. Độc giả vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế để được tư vấn cụ thể và chính xác nhất.