Tổng quan chung
Triệu chứng
Nguyên nhân
Đối tượng nguy cơ
Chuẩn đoán
Phòng ngừa bệnh
Cách điều trị
Thiên đầu thống (Glaucoma) là gì? Những điều cần biết về thiên đầu thống
Bệnh Glaucoma (Thiên đầu thống) là nguyên nhân thứ hai gây mù lòa trên thế giới sau bệnh đục thể thủy tinh, tuy nhiên, không giống như bệnh đục thể thủy tinh, tình trạng mất thị lực do bệnh glaucoma phần lớn không thể phục hồi. Hãy cùng Pharmacity tìm hiểu về Thiên đầu thống qua bài viết dưới đây.
Tổng quan chung
Thiên đầu thống hay còn được gọi là Glaucoma, cườm nước, là tình trạng tăng nhãn áp, xảy ra khi áp lực trong mắt tăng cao, gây tổn thương thần kinh thị giác và dẫn tới suy giảm thị lực, mù lòa.
Bệnh Glaucoma (thiên đầu thống) được chia ra làm 4 loại:
- Glaucoma góc mở tiên phát: Loại glaucoma này chiếm phần lớn tỷ lệ mắc glaucoma tại hầu hết các quốc gia, chủ yếu xảy ra ở người cao tuổi nhưng cũng có thể xảy ra ở người trung niên. Các thành viên trong gia đình của những người bị bệnh glaucoma sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn người bình thường, vì bệnh này thường liên quan đến yếu tố di truyền.
- Glaucoma góc đóng cấp tính: Đây là loại glaucoma phổ biến nhất ở Việt Nam, thường xảy ra với người trung niên và người cao tuổi, đặc biệt là phụ nữ do sự gia tăng đột ngột và nhanh chóng của áp suất trong mắt. Nếu không được điều trị ngay, thì trong một thời gian ngắn có thể dẫn đến tổn thương mắt vĩnh viễn gây mù loà.
- Glaucoma bẩm sinh: Loại glaucoma này hiếm gặp và xảy ra ở trẻ sơ sinh. Mắt của trẻ mở lớn, chảy nước mắt và nhạy cảm bất thường với ánh sáng là các triệu chứng cho thấy cần đưa trẻ đến thăm khám với bác sĩ nhãn khoa.
- Glaucoma thứ phát: Glaucoma thứ phát sẽ do các tình trạng khác gây ra như viêm mắt, khối u trong mắt, phẫu thuật mắt, chấn thương mắt hoặc đục thể thủy tinh ở các giai đoạn nghiêm trọng.
Triệu chứng
Bệnh Glaucoma có nhiều thể bệnh và nhiều nguyên nhân khác nhau, do vậy triệu chứng biểu hiện cũng rất khác nhau tùy thể loại bệnh. Trong đó, Glaucoma chủ yếu được chia làm 2 thể bệnh chính:
- Glaucoma góc đóng
- Glaucoma góc mở.
Nguy hiểm hơn, ở giai đoạn sớm của 2 thể bệnh này, triệu chứng biểu hiện không rõ ràng và thường bị bỏ qua.
- Nhức mắt, nặng mắt thoáng qua: bệnh Glaucoma xuất hiện âm thầm, tiến triển chậm trong thời gian dài, nhiều người bệnh không cảm thấy đau nhức mắt, một số trường hợp đôi khi thấy mắt căng tức nhẹ thoáng qua hoặc nhức quanh hốc mắt.
- Mờ mắt thoáng qua: ở giai đoạn sớm khi tình trạng nhãn áp tăng lên có thể làm nhìn mờ như sương mù hoặc nhìn nhòe trong 1 thời gian ngắn. Sau đó, khi áp lực mắt giảm xuống, người bệnh nhìn rõ trở lại, triệu chứng này có thể gặp ở nhiều bệnh khác nhưng mờ mắt thoáng qua xảy ra cùng lúc với nhức mắt là dấu hiệu nghi ngờ rõ nhất của bệnh Glaucoma.
- Nhìn thấy hào quang: khi nhãn áp tăng, người bệnh đôi khi sẽ thấy quầng sáng xanh đỏ khi nhìn vào đèn. Tình trạng này có thể kéo dài cả buổi và lập đi lập lại trong một khoảng thời gian.
- Nhức đầu: nhức đầu là triệu chứng của rất nhiều bệnh trong đó cao huyết áp là bệnh thường hay nghĩ đến hơn là bệnh Glaucoma. Vì vậy, khi các triệu chứng nhức đầu kèm theo nhức mắt, mờ mắt thì cần phải đi khám thêm bác sĩ chuyên khoa mắt để kiểm tra có bệnh Glaucoma kèm theo hay không.
Ngoài ra, người mắc bệnh Glaucoma có thể có thêm một số triệu chứng như:
- Nhìn đèn có quầng xanh đỏ, nhìn có đom đóm bay trước mắt.
- Thích nghi sáng tối kém, khó nhìn theo vật di động.
- Nhìn khuyết góc hoặc nhìn bị che lấp một phần.
- Đau nhức hốc mắt.
- Mất dần tầm nhìn ngoại vi: người bệnh có cảm giác như nhìn qua đường hầm.
- Mắt sưng đỏ, khi lấy tay di vào phần mí mắt trên thấy cứng như hòn bi.
- Nôn hoặc buồn nôn.
Trong giai đoạn đầu, các triệu chứng xuất hiện ít và khó phát hiện. Theo thời gian bệnh có thể tiến triển nặng lên gây suy giảm thị lực nghiêm trọng, thậm chí dẫn đến mù lòa.
Nguyên nhân gây bệnh Glaucoma
Bệnh Glaucoma xảy ra khi sự mất cân bằng trong sản xuất và thoát dịch trong mắt (thủy dịch) làm tăng nhãn áp đến mức không tốt cho mắt. Bình thường, chất lỏng nuôi dưỡng mắt, được sản xuất bởi cơ thể mi phía sau mống mắt (trong hậu phòng) và đi qua đồng tử đến phía trước của mắt (tiền phòng), nơi nó thoát ra các ống dẫn lưu giữa mống mắt và giác mạc (góc tiền phòng). Sự cân bằng giữa sản xuất và thoát thủy dịch giữ cho thủy dịch chảy tự do và ngăn chặn áp lực trong mắt tăng cao.
Trong bệnh Glaucoma, các kênh thoát nước bị tắc nghẽn hoặc bít tắc. Thủy dịch không thể thoát khỏi mắt mặc dù thủy dịch mới đang được sản xuất trong hậu phòng, gây áp lực trong mắt tăng lên. Khi áp lực trở nên cao hơn mức mà dây thần kinh thị giác có thể chịu đựng, thì dây thần kinh thị giác sẽ bị tổn thương. Tổn thương này được gọi là bệnh Glaucoma.
Đôi khi nhãn áp tăng trong phạm vi bình thường nhưng vẫn quá cao đối với thần kinh thị giác có thể chịu đựng được (được gọi là bệnh Glaucoma nhãn áp thấp hay Glaucoma nhãn áp bình thường).
- Ở hầu hết trường hợp, nguyên nhân của bệnh Glaucoma không tìm được, gọi là Glaucoma nguyên phát.
- Khi tìm ra nguyên nhân của bệnh, gọi là bệnh Glaucoma thứ phát. Nguyên nhân của bệnh Glaucoma thứ phát bao gồm:
- Nhiễm trùng
- Viêm
- Khối u
- Đục thủy tinh thể lớn, phẫu thuật đục thủy tinh thể
- Thuốc hoặc các bệnh lý khác.
Những nguyên nhân này khiến thủy dịch không thể thoát ra, dẫn đến tăng nhãn áp và tổn thương dây thần kinh thị giác.
Đối tượng nguy cơ
Nguyên nhân chính xác gây bệnh lý về mắt này là do đâu hiện vẫn chưa xác định được. Bệnh thường xảy ra ở độ tuổi trên 35 tuổi, có thể là ở cả hai giới, tuy nhiên chủ yếu xuất hiện ở nữ giới nhiều hơn. Ngoài ra, có một số đối tượng cũng có nguy cơ cao mắc bệnh thiên đầu thống, đó là:
- Trong gia đình có người thân đã bị bệnh này (do yếu tố di truyền).
- Bị các bệnh khác ví dụ như cao huyết áp, bệnh tiểu đường, các bệnh lý về mắt hoặc chấn thương mắt.
- Dùng thuốc corticoid kéo dài.
- Có nhãn cầu nhỏ, giác mạc nhỏ.
- Bị tăng nhãn áp Glaucoma cao trên 25 mmHg.
- Thường xuyên cảm thấy lo lắng, dễ xúc cảm.
Chẩn đoán
Các phương pháp khám và chẩn đoán Glaucoma bao gồm
- Đo nhãn áp: Tùy từng phương pháp đo nhãn áp mà có chỉ số bình thường khác nhau. Các phương pháp đo nhãn áp tiên tiến hiện nay như phương pháp Goldmann, phương pháp đo nhãn áp không tiếp xúc cho kết quả chính xác cao. Đặc biệt trong phương pháp đo nhãn áp không tiếp xúc, còn có ưu điểm hạn chế nguy cơ bị nhiễm bệnh, rất nhanh chóng không gây đau đớn khó chịu cho bệnh nhân.
- Soi góc tiền phòng: bằng kính soi góc, sử dụng sinh hiển vi khám bệnh cho phép phân loại thể Glaucoma góc đóng hay góc mở. Hiện nay với các thiết bị chẩn đoán hiện đại như chụp OCT góc tiền phòng cho phép chẩn đoán chính xác tình trạng góc và độ đóng mở của góc, giúp ích rất nhiều cho chẩn đoán và điều trị.
- Soi đáy mắt: Kiểm tra này sẽ cho ra kết quả đánh giá mức độ tổn thương thần kinh thị: lõm teo gai thị
- Đo thị trường tự động: Đây là phương pháp đo thị trường tiên tiến cho phép đánh giá các tổn thương của tế bào hạch thần kinh của võng mạc từ giai đoạn sớm, đồng thời cho phép đánh giá các giai đoạn của bệnh cũng như theo dõi tiến triển của bệnh.
- Chụp OCT: các thế hệ máy chụp OCT tiên tiến ngày nay cho phép đánh giá được rất nhiều yếu tố giúp chẩn đoán bệnh Glaucoma từ giai đoạn rất sớm. OCT cho phép đánh giá tổn thương của lớp tế bào hạch, chiều dày của lớp sợi thần kinh quanh gai thị, diện tích và thể tích lõm gai, diện tích lớp viền thần kinh quanh gia còn lại… Sử dụng OCT để theo dõi quá trình điều trị bệnh cho phép phát hiện ra những biến đổi rất nhỏ, giúp bác sỹ có những phương pháp điều trị kịp thời thích hợp.
Phòng ngừa bệnh
Không có phương pháp nào phòng ngừa bệnh tăng nhãn áp. Tuy nhiên nếu được chẩn đoán và điều trị sớm có thể làm chậm và ngăn chặn tổn thương thần kinh thị giác. Nếu không điều trị, bệnh tăng nhãn áp có thể dẫn đến mù lòa.
Thường xuyên đi khám mắt 1 đến 2 lần trong một năm để phát hiện những dấu hiệu bệnh Glaucoma và các bệnh về mắt khác. Hãy luôn chọn bệnh viện mắt uy tín để khám và điều trị các bệnh về mắt.
Điều trị như thế nào?
Điều trị sớm có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh, đó là lý do tại sao chẩn đoán bệnh sớm rất quan trọng. Các biện pháp điều trị Glaucoma bao gồm:
- Các thuốc hạ nhãn áp dưới dạng thuốc nhỏ mắt hoặc thuốc viên, làm giảm áp lực cho mắt. Vì bệnh tăng nhãn áp thường không có triệu chứng, nên bệnh nhân thường ngưng uống hoặc quên uống thuốc. Nếu quyết định sử dụng thuốc, hãy lên một lịch trình uống thuốc cụ thể.
- Phẫu thuật bằng Laser: Bác sĩ sẽ dùng laser argon để tạo hình vùng bè, quá trình lành vết thương sẽ co kéo lớp sợi collagen vùng bè làm tăng thoát lưu thủy dịch.
- Phẫu thuật thông thường: tạo cho một lỗ hở cho chất dịch ra khỏi mắt. Bác sĩ sử dụng các công cụ phẫu thuật để tạo ra một lỗ nhỏ dưới kết mạc (lớp xung quanh mắt). Các chất lỏng tích tụ có thể chảy qua lỗ, và sau đó hấp thụ vào máu.
Bài viết trên đã cho bạn những thông tin về thiên đầu thống. Hi vọng, sẽ có ích cho việc chăm sóc sức khỏe gia đình bạn.